THỰC THI QUYỀN – NHỮNG CÂU HỎI THƯỜNG GẶP


Liên hệ
Các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ được quy định chi tiết tại các Điều 28, Điều 35, Điều 126, Điều 127, Điều 129 và 188 của Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam. Theo đó, để xác định một hành vi có bị coi là hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ theo các điều khoản trên hay không thì chúng ta phải xem xét hành vi đó có đáp ứng đủ các căn cứ, theo quy định tại Điều 72 Nghị định 65/2023/NĐ-CP:
Cụ thể, hành vi bị xem xét bị coi là hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng quy định tại các Điều 126, 127, 129 và 188 của Luật Sở hữu trí tuệ, khi có đủ các căn cứ sau đây:
- Đối tượng bị xem xét thuộc phạm vi các đối tượng đang được bảo hộ;
- Có yếu tố xâm phạm trong đối tượng bị xem xét;
- Người thực hiện hành vi bị xem xét không phải là chủ thể quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng và không phải là người được pháp luật hoặc cơ quan có thẩm quyền cho phép theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 125, Điều 133, khoản 3 Điều 133a, Điều 134, khoản 2 Điều 137, các Điều 145, 190 và 195 của Luật Sở hữu trí tuệ;
- Hành vi bị xem xét xảy ra tại Việt Nam. Hành vi cũng bị coi là xảy ra tại Việt Nam nếu hành vi đó xảy ra trên mạng Internet và được thực hiện trên trang thông tin điện tử dưới tên miền Việt Nam hoặc có ngôn ngữ hiển thị là tiếng Việt hoặc nhằm vào người tiêu dùng hoặc người dùng tin tại Việt Nam.
Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp là để bảo vệ pháp chế, là bảo đảm sự chấp hành các luật, pháp lệnh và các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp. Hoạt động bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp nhằm đảm bảo cho các nội dung của quy phạm pháp luật về sở hữu công nghiệp được thi hành nghiêm chỉnh, có hiệu lực, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước, của xã hội và của chủ văn bằng.
Các đối tượng sở hữu công nghiệp đang được bảo hộ là tài sản của doanh nghiệp, của cá nhân được pháp luật thừa nhận.
Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp để thực hiện quyền và nghĩa vụ quốc tế. Việt Nam đã tham gia nhiều công ước quốc tế về sở hữu trí tuệ và nhiều hiệp định thương mại. Việt Nam đã là thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Nội dung của các văn bản này, đặc biệt của Hiệp định các khía cạnh sở hữu trí tuệ liên quan tới thương mại (TRIPS) đều quy định trách nhiệm của các bên tham gia trong việc thực thi các điều khoản đã cam kết, trong đó đảm bảo việc bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp của các tổ chức, cá nhân là chủ văn bằng đang được bảo hộ tại Việt Nam.
Quyền tự bảo vệ là quyền của chủ thể quyền sở hữu công nghịêp áp dụng các biện pháp khác nhau để tự bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp của mình, theo quy định tại Điều 198 Luật Sở hữu trí tuệ, bao gồm:
- Áp dụng biện pháp công nghệ bảo vệ quyền, đưa thông tin quản lý quyền hoặc áp dụng các biện pháp công nghệ khác nhằm ngăn ngừa hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ;
- Yêu cầu tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ phải chấm dứt hành vi xâm phạm, gỡ bỏ và xóa nội dung vi phạm trên môi trường mạng viễn thông và mạng Internet, xin lỗi, cải chính công khai, bồi thường thiệt hại;
- Yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan;
- Khởi kiện ra tòa án hoặc trọng tài để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp.
Khi bên vi phạm có lỗi cố ý hoặc vô ý nhưng chưa đến mức được coi là nguy hiểm, chưa đến mức được xác định là tội phạm và các hành vi này được quy định trong các văn bản xử lý hành chính về quyền sở hữu trí tuệ có liên quan như: Luật xử lý vi phạm hành chính, Nghị định 99/2013/NĐ-CP Quy định về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp…
Các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ bị xử phạt vi phạm hành chính quy định tại Điều 211 Luật Sở hữu trí tuệ bao gồm:
- Xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ gây thiệt hại cho tác giả, chủ sở hữu, người tiêu dùng hoặc cho xã hội;
- Sản xuất, nhập khẩu, vận chuyển, buôn bán hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ quy định tại Điều 213 của Luật này hoặc giao cho người khác thực hiện hành vi này;
- Sản xuất, nhập khẩu, vận chuyển, buôn bán, tàng trữ tem, nhãn hoặc vật phẩm khác mang nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý giả mạo hoặc giao cho người khác thực hiện hành vi này.
Khi phát hiện có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, các tổ chức, cá nhân, chủ thể quyền đề nghị các cơ quan Thanh tra chuyên ngành hoặc các cơ quan như: Quản lý thị trường, Uỷ ban nhân dân cấp huyện trở lên để được xử lý.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 71 Nghị định 65/2023/NĐ-CP, biện pháp hành chính được áp dụng để xử lý hành vi xâm phạm thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 211 của Luật Sở hữu trí tuệ, theo yêu cầu của chủ thể quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng, tổ chức, cá nhân bị thiệt hại do hành vi xâm phạm gây ra, tổ chức, cá nhân phát hiện hành vi xâm phạm hoặc do cơ quan có thẩm quyền chủ động phát hiện.
Bên bị xâm phạm phải xác định được thiệt hại thực tế, yếu tố lỗi, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi của bên vi phạm và thiệt hại mà bên bị xâm phạm phải chịu. Biện pháp xử lý dân sự có thể áp dụng để xử lý hành vi xâm phạm song song với biện pháp xử lý hành chính và biện pháp xử lý hình sự.
Khi xảy ra tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ, chủ thể quyền sở hữu trí tuệ có quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Toà án nhân dân cấp tỉnh, thành phố giải quyết. Theo quy định tại Điều 202 Luật Sở hữu trí tuệ, Toà án có thẩm quyền buộc bên xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ thực hiện việc:
- Chấm dứt hành vi xâm phạm.
- Xin lỗi, cải chính công khai.
- Thực hiện nghĩa vụ dân sự.
- Bồi thường thiệt hại.
Tiêu huỷ hoặc phân phối hoặc đưa vào sử dụng không nhằm mục đích thương mại đối với hàng hoá, nguyên liệu, vật liệu và phương tiện được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hoá xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ với điều kiện không làm ảnh hưởng đến khả năng khai thác quyền của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ.
Được áp dụng đối với người nào cố ý thực hiện các hành vi xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan, xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ tại Việt Nam với quy mô thương mại, bên vi phạm có lỗi được coi là nguy hiểm cho xã hội, các hành vi và mức độ xâm phạm được quy định cụ thể trong Luật Hình sự.
Khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, chủ thể quyền có thể nộp đơn yêu cầu các cơ quan tiến hành tố tụng xử lý.
Các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ được coi là tội phạm khi có đủ các yếu tố cấu thành một trong các tội quy định trong Bộ luật hình sự sau:
+ Tội sản xuất, buôn bán hàng giả;
+ Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh;
+ Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú; thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi;
+ Tội lừa dối khách hàng.
Chủ thể quyền sở hữu trí tuệ đã được bảo hộ theo quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ có quyền đề nghị cơ quan hải quan áp dụng các biện pháp kiểm tra, giám sát hoặc tạm dừng làm thủ tục hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu có dấu hiệu xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.
Ngoài ra, khoản 1 Điều 103 Nghị định 65/2023/NĐ-CP quy định về trường hợp Chi cục Hải quan có quyền chủ động ra quyết định tạm dừng làm thủ tục hải quan đối với hàng hóa nếu phát hiện căn cứ rõ ràng để nghi ngờ hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu là hàng hoá giả mạo nhãn hiệu, hàng hoá giả mạo chỉ dẫn địa lý.
Các quy định về việc tạm dừng làm thủ tục hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu có dấu hiệu xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ quy định tại Luật này không áp dụng đối với hàng hóa viện trợ nhân đạo, tài sản di chuyển, hàng hóa được hưởng quyền ưu đãi, miễn trừ, hành lý, quà biếu, quà tặng trong tiêu chuẩn miễn thuế và hàng hóa quá cảnh.
- Trong trường hợp bên xâm phạm quyền SHTT đang bị xử lý bằng biện pháp hành chính, hình sự thì chủ thể quyền hoặc tổ chức, cá nhân bị thiệt hại có thể khởi kiện người có hành vi xâm phạm tại Toà án để yêu cầu bồi thường thiệt hại.
- Khi áp dụng biện pháp kiểm soát hàng hoá xuất, nhập khẩu liên quan đến SHTT, cơ quan Hải quan phát hiện có hàng hoá xâm phạm quyền SHTT, cơ quan Hải quan thực hiện việc thông báo để chủ thể thực hiện quyền khởi kiện vụ án dân sự tại Toà án hoặc có đơn yêu cầu cơ quan xử lý bằng biện pháp hành chính (trong trường hợp này, chủ thể quyền vẫn có quyền khởi kiện tại Tòa án để yêu cầu bồi thường thiệt hại).
Giám định về SHTT có vai trò hỗ trợ cho các lực lượng thực thi quyền SHTT trong việc đánh giá, kết luận về các nội dung sau đây (Khoản 1 Điều 114 Nghị định 65/2023/NĐ-CP):
- Xác định phạm vi bảo hộ của đối tượng quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng;
- Xác định đối tượng được xem xét có đáp ứng các điều kiện để bị coi là yếu tố xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng hay không theo quy định tại các điều từ Điều 74 đến Điều 80 của Nghị định này;
- Xác định có hay không sự trùng, tương đương tương tự, gây nhầm lẫn, khó phân biệt hoặc sao chép giữa đối tượng được xem xét với đối tượng được bảo hộ;
- Xác định giá trị quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng theo phương pháp định giá được quy định trong pháp luật về giá; xác định giá trị thiệt hại theo quy định tại Điều 204 và 205 của Luật Sở hữu trí tuệ.
Kết luận giám định là một trong các nguồn chứng cứ để cơ quan có thẩm quyền xử lý, giải quyết vụ việc. Kết luận giám định không kết luận về hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ hoặc kết luận về vụ tranh chấp.
Việc yêu cầu giám định có thể được thực hiện bởi chủ thể quyền, các tổ chức, cá nhân liên quan và các cơ quan thực thi khi cần thiết.
Hoạt động giám định được thực hiện bởi các tổ chức, cá nhân đáp ứng được các điều kiện hành nghề theo quy định của pháp luật.
Đại diện SHTT là một dịch vụ do tổ chức, hoặc cá nhân thực hiện nhằm đại diện cho chủ thể quyền, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của chủ thể quyền SHTT và có trách nhiệm cung cấp chứng cứ chứng minh hoặc các thông tin về hành vi xâm phạm quyền SHTT chủ thể quyền mà mình đang là đại diện, có trách nhiệm giải trình làm rõ các nội dung liên quan đến yêu cầu xử lý trước các cơ quan thực thi.
Cơ quan quản lý nhà nước về SHTT (Cục SHTT, Cục Bản quyền tác giả, Văn phòng bảo hộ giống cây trồng) không trực tiếp thực hiện các biện pháp thực thi quyền SHTT, song đây là các cơ quan chuyên môn, trong nhiều trường hợp các cơ quan này sẽ cung cấp các ý kiến để giúp các cơ quan thực thi kết luận về việc có hay không có hành vi xâm phạm quyền SHTT.
Việc cung cấp ý kiến chuyên môn tương tự như giám định SHTT nhưng được thực hiện bởi cơ quan xác lập quyền và chỉ có cơ quan thực thi mới có quyền được lấy ý kiến chuyên môn của các cơ quan này. Các cơ quan xác lập quyền không cung cấp ý kiến chuyên môn cho chủ thể quyền hoặc các tổ chức, cá nhân liên quan khác.
Cơ quan Thanh tra Khoa học và Công nghệ các cấp.
Cơ quan Quản lý thị trường các cấp.
Cơ quan Hải quan các cấp.
Cơ quan Công an các cấp.
Ủy ban nhân dân cấp huyện, tỉnh.