Trí tuệ nhân tạo (AI) trong sáng tạo và sở hữu trí tuệ

Với sự phát triển vượt bậc của trí tuệ nhân tạo (AI), chúng ta đang chứng kiến sự ra đời của nhiều tác phẩm sáng tạo ở các lĩnh vực như âm nhạc, văn học, phần mềm và nghệ thuật. Điều này đặt ra các câu hỏi pháp lý và sở hữu trí tuệ về quyền tác giả đối với các tác phẩm do AI tạo ra. Cụ thể, AI có thể được coi là tác giả hợp pháp hay quyền sở hữu trí tuệ nên thuộc về người lập trình hoặc chủ sở hữu AI? Đây là vấn đề được quan tâm mạnh mẽ bởi giới chuyên môn và cộng đồng sáng tạo, nhất là ở một số quốc gia chưa có quy định rõ ràng về xử lý các tác phẩm do AI tạo ra, gây khó khăn cho việc xác định quyền sở hữu và bảo vệ các tác phẩm này.

1. Thực trạng hiện nay

Trí tuệ nhân tạo (TTNT) là lĩnh vực khoa học máy tính, nghiên cứu và phát triển các hệ thống có khả năng thực hiện các nhiệm vụ mà thường đòi hỏi trí thông minh của con người. Tính  đến nay, ChatGPT (của OpenAI) được cho là có trên 800 triệu người dùng[1] trên thế giới (theo dữ liệu đến tháng 7 năm 2025), tạo nên một “cơn sốt” công nghệ và đặt câu hỏi về khả năng thay thế một số công việc của con người.

Nguồn: Reuters , Semrush,CNBC,The Verge,Techerati,DigitalInformationWorld,Bond,Axios
Nguồn: Reuters , Semrush,CNBC,The Verge,Techerati,DigitalInformationWorld,Bond,Axios

TTNT có thể được chia thành nhiều loại, từ hệ thống đơn giản như chatbot đến các mô hình phức tạp như học sâu (deep learning) và học máy (machine learning). Mục tiêu cuối cùng của TTNT là tạo ra những máy móc hoặc phần mềm có thể tự động hóa các nhiệm vụ và nâng cao hiệu suất công việc. Trong đời sống ngày nay, AI đã được áp dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực, cụ thể ở các lĩnh vực sau:

Về âm nhạc: AI có thể tự mình sáng tác nhạc mới mà chỉ cần dựa trên câu lệnh cơ bản của con người, kết hợp và biến tấu các giai điệu, hợp âm, nhip điệu có sẵn để cho ra sản phẩm mới. AI có thể viết nhạc tự động, hỗ trợ cho người viết nhạc, nhà sản xuất tạo ra sản phẩm mới, giai điệu mới hoặc những đoạn nhạc ngắn, nhạc nền cho phim ảnh, cho trò chơi hoặc cho các dự án sáng tạo phù hợp với yêu cầu của con người. Các nghệ sĩ cũng có thể dùng AI như một công cụ để sáng tạo bổ sung, để lấy ý tưởng hay bồi đắp thêm các sáng tác của mình, phối hợp cùng AI để phát triển các bản nhạc mới. Ngoài ra, đối với lĩnh vực nhạc nền cho nội dung kỹ thuật số: AI có thể tạo ra nhạc nền cho video, game, quảng cáo, hoặc các sản phẩm đa phương tiện khác, giúp tiết kiệm thời gian cho các nhà sản xuất và phát triển nội dung.

Ví dụ như AIVA (Artificial Intelligence Virtual Artist) là một hệ thống AI có thể sáng tác các bản nhạc cổ điển, giúp các nhà soạn nhạc tạo ra nhạc cho các bộ phim, video game, hoặc thậm chí cho các sự kiện âm nhạc. Gần đây nhất, bộ phim “Qủy nhập tràng” đã tạo ra sự bàn tán rộng rãi trên mạng xã hội khi đoàn phim tiết lộ rằng, toàn bộ ca khúc và giọng hát đều do AI (Trí tuệ nhân tạo) thực hiện AI[2]. Được biết một bộ phận khán giả khá hào hứng với sự giao thoa giữa công nghệ và nghệ thuật, cho rằng đây là một bước tiến đột phá trong nền công nghiệp điện ảnh. Ngược lại, nhiều người lo ngại rằng sự phụ thuộc quá mức vào AI có thể làm lu mờ cảm xúc và sức sáng tạo vốn là cốt lõi của nghệ thuật.

Về văn học: Trong văn học các công cụ AI như GPT (Generative Pretrained Transformer) có thể viết các bài phát biểu, bài báo, tiểu thuyết, thơ ca và thậm chí là các kịch bản phim,… Một số công vụ AI như Chat GPT có khả năng tạo văn bản với ngôn ngữ tự nhiên NLP (Natural Language Processing) và dữ liệu văn bản khổng lồ có thể hỗ trợ người viết các bài báo cáo, tiểu thuyết, thơ ca và hơn thế là kịch bản phim một cách hoàn chỉnh, AI còn có thể gợi ý các từ ngữ, câu chuyện, hoặc thậm chí viết tiếp một đoạn văn mà nhà văn đang viết dở, điều này giúp các tác giả tăng tốc quá trình sáng tác và vượt qua các rào cản sáng tạo, bởi AI hiểu được mong muốn của người sử dụng và biết cách tạo ra văn bản phù hợp với yêu cầu của người sử dụng.

Ví dụ, người dùng có thể nhập một chủ đề hoặc một dàn ý, và AI sẽ tự động tạo ra toàn bộ tác phẩm. Điều này rất hữu ích cho các nhà xuất bản hoặc các tác giả muốn nhanh chóng sản xuất nhiều nội dung. Theo Jerusalem Post, ông Isaac Herzog – Tổng thống Israel đã có bài phát biểu khai mạc đặc biệt tại hội thảo về an ninh mạng Cybertech Global Tel Aviv 2023 ngày 01/02. Trước gần 20.000 khán giả, ông tiết lộ phần mở đầu do chính ChatGPT viết.[3]

Tổng thống Israel, Isaac Herzog. Ảnh: Reuters
Tổng thống Israel, Isaac Herzog. Ảnh: Reuters

Theo đó, ông Herzog trở thành nhà lãnh đạo quốc gia đầu tiên sử dụng ChatGPT cho bài phát biểu của mình. Trước đó, Công cụ AI này được nhiều nhân vật đánh giá cao, trong đó có Bill Gates. ChatGPT do OpenAI phát triển, ra mắt cuối tháng 11/2022. Khi một câu hỏi được gửi đến ChatGPT, mô hình sẽ tiến hành phân tích và tìm kiếm trong kho kiến thức đã “học” để đáp lại một cách hợp lý nhất.

Về nghệ thuật: Các tác phẩm nghệ thuật từ AI đã xuất hiện trên các triển lãm và thậm chí có thể được bán đấu giá với giá trị cao, như hai bức tranh có tên “Edmond de Belamy”[4] và “The Butcher’s Son” được tạo ra bởi một thuật toán AI đã được bán tại Christie’s.

Tác phẩm “Edmond de Belamy” với phần chữ kỹ gồm các kỹ hiệu toán học – Ảnh: Cnet.
Tác phẩm “Edmond de Belamy” với phần chữ kỹ gồm các kỹ hiệu toán học – Ảnh: Cnet.
Bức chân dung The Butcher’s Son – Ảnh: Mario Klingermann
Bức chân dung The Butcher’s Son – Ảnh: Mario Klingermann

Không chỉ đơn thuần là công cụ hỗ trợ nghệ sĩ mà AI còn có thể tạo ra các tác phẩm nghệ thuật độc lập mà không cần sự can thiệp của con người, với hệ thống Generative Adversarial Networks (GANs) có thể sáng tạo ra hình ảnh, tranh vẽ, và các tác phẩm nghệ thuật khác bằng cách học từ những dữ liệu được cung cấp, tạo ra kết quả có thể giống như các tác phẩm của các danh họa nổi tiếng hoặc hoàn toàn mới lạ.

Ví dụ nổi bật như: Bức tranh “Edmond de Belamy” là một trong những ví dụ điển hình về tác phẩm nghệ thuật do AI tạo ra là “Edmond de Belamy”, một bức tranh được tạo ra bởi nhóm nghệ sĩ Obvious với sự trợ giúp của AI – tạo ra bằng thuật toán GANs và đã được bán tại Christie’s, một trong những nhà đấu giá danh tiếng, với giá 432.000 USD, điều này gây ra sự ngạc nhiên lớn và mở ra một cuộc thảo luận về giá trị nghệ thuật của các tác phẩm do AI tạo ra.

Về phần mềm: AI được sử dụng để viết mã code phần mềm, giúp tự động hóa quá trình lập trình và sáng tạo ra những phần mềm mới bởi khả năng nổi bật của AI trong ngành phần mềm là khả năng tự động viết mã. Các công cụ AI có thể tự động sinh mã dựa trên yêu cầu đầu vào của người dùng ví dụ như GitHub Copilot, OpenAI Codex, và Tabnine sử dụng AI để giúp các lập trình viên viết mã nhanh chóng và chính xác hơn. Ngoài ra, AI còn có nhiều khả năng khác như kiểm thử, chạy thử phần mềm, phát hiện các lỗi hoặc bug, và thậm chí có thể sửa chữa lỗi tự động, giúp kiểm tra giao diện người dùng, tìm kiếm các lỗi tiềm ẩn mà có thể lập trình viên bỏ sót, tối ưu hóa mã (Code Optimization), phát triển phần mềm tự động (Automated Software Development), phát triển game, phát triển ứng dụng doanh nghiệp.

Ngoài các lĩnh vực trên, AI đã và đang là bước đột phá lớn của con người, những tác phẩm không chỉ cho thấy khả năng sáng tạo của AI mà còn mở ra nhiều câu hỏi về bản quyền, giá trị nghệ thuật và vai trò của con người trong sáng tạo.

2. Vấn đề pháp lý trong sở hữu trí tuệ đối với tác phẩm do AI tạo ra

Ngày nay, AI có thể sáng tạo ra các tác phẩm văn học bằng thuật toán, do đó việc xác định quyền tác giả gặp phải khó khăn lớn, đặc biệt là trong các quốc gia không có quy định rõ ràng về việc xử lý các tác phẩm do AI tạo ra. Điều này gây khó khăn trong việc xác nhận quyền sở hữu và bảo vệ các tác phẩm này, câu hỏi quan trọng nhất là ai sở hữu quyền tác giả đối với các tác phẩm này. AI có thể là tác giả hợp pháp không? Ai sở hữu quyền tác giả? Nếu AI sử dụng tác phẩm có bản quyền để tạo ra sản phẩm sáng tạo, liệu có thể coi đó là hành vi vi phạm bản quyền? Liệu, người lập trình AI – Chủ sở hữu hoặc người phát triển AI có thể là người sở hữu quyền tác giả, vì họ là người đã tạo ra hệ thống AI? Hay người sử dụng AI – người sử dụng AI tạo ra tác phẩm cũng có thể được coi là chủ sở hữu quyền tác giả nếu họ cung cấp các đầu vào hoặc kiểm soát quá trình sáng tạo của AI?.

Dưới góc độ pháp luật Sở hữu trí tuệ, các quốc gia trên thế giới có các quy định khác nhau về việc bảo vệ quyền tác giả cho các tác phẩm được tạo ra bởi trí tuệ nhân tạo (AI), hầu hết các quốc gia tiêu biểu đều chỉ trao quyền tác giả cho con người. Cho đến nay, quyền tác giả đã được ghi nhận một cách rộng rãi ở hầu hết các quốc gia trên khắp thế giới. Theo đó, Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) đã và đang tiến hành nghiên cứu và thảo luận về các giải pháp pháp lý nhằm mục đích vừa không làm mất đi quyền lợi của các nhà phát triển công nghệ và đảm bảo rằng các sản phẩm sáng tạo từ AI được bảo vệ một cách hợp lý. Một số quốc gia như Anh và Nhật Bản, Hoa Kỳ cũng đã bắt đầu đưa ra các đề xuất về việc điều chỉnh luật sở hữu trí tuệ để thích ứng với sự phát triển của AI, mặc dù vẫn chưa có giải pháp hoàn chỉnh và nhất quán trên toàn cầu.

Pháp luật về quyền tác giả của nước Anh quy định, tại Điều 9(3) Đạo luật Bản quyền, Thiết kế và Bằng sáng chế 1988 (Copyright, Designs and Patents Act 1988 – CDPA 1988[5]) đã quy định cụ thể như sau: “In the case of a literary, dramatic, musical or artistic work which is computer-generated, the author shall be taken to be the person by whom the arrangements necessary for the creation of the work are undertaken.”

Tạm dịch là “Trong trường hợp tác phẩm văn học, kịch, âm nhạc hoặc nghệ thuật được tạo ra bằng máy tính, tác giả là người thực hiện những sắp xếp cần thiết cho việc tạo ra tác phẩm đó”. Nói một cách dễ hiểu hơn, tác giả của các tác phẩm AI sẽ là các lập trình viên hay các kỹ sư công nghệ. Bên cạnh đó, tại Điều 178 của CDPA 1988 nêu rõ: “[…] computer-generated”, in relation to a work, means that the work is generated by computer in circumstances such that there is no human author of the work;[…]” điều này đã cụ thể hóa khái niệm của tác phẩm do AI tạo ra được hiểu là “Tác phẩm được tạo ra bởi máy tính trong hoàn cảnh không có tác giả là con người của tác phẩm”, những tác phẩm như vậy sẽ được bảo hộ trong 50 năm kể từ cuối năm dương lịch mà chúng được tạo ra theo Điều 12 (7) CDPA 1988:“If the work is computer-generated the above provisions do not apply and copyright expires at the end of the period of 50 years from the end of the calendar year in which the work was made”.

Không chịu kém cạnh, Nhật Bản cũng là quốc gia tích cực trong công cuộc phát triển trí tuệ nhân tạo AI song song với hoàn thiện nền pháp luật về Sở hữu trí tuệ. Năm 2017, một trí tuệ nhân tạo có tên là Shibuya Mirai được nước này cấp quyền công dân và được một cơ quan đăng ký địa phương công nhận quyền cư trú tại Tokyo[6].

Giấy chứng nhận quyền cư trú của Shibuya Mirai, robot sử dụng trí tuệ nhân tạo. Ảnh: AFP.
Giấy chứng nhận quyền cư trú của Shibuya Mirai, robot sử dụng trí tuệ nhân tạo. Ảnh: AFP.

Mặc dù vậy, nước này vẫn từ chối bảo hộ quyền tác giả cho các sản phẩm từ trí tuệ nhân tạo AI, bởi theo pháp luật quyền tác giả hiện hành, các sản phẩm từ AI không có đủ các điều kiện theo phân tích về “suy nghĩ” và “cảm xúc” do đó ở nước này không xem sản phẩm do trí tuệ nhân tạo tạo ra là một tài sản.

Tại Hoa Kỳ, theo Điều 17 U.S.C. § 102(a) Luật bản quyền Hoa Kỳ quy định:“Copyright protection subsists, in accordance with this title, in original works of authorship fixed in any tangible medium of expression, now known or later developed, from which they can be perceived, reproduced, or otherwise communicated, either directly or with the aid of a machine or device.” [7]

Tạm dịch là “Bảo hộ bản quyền tồn tại, theo quy định của tiêu đề này, đối với các tác phẩm gốc của tác giả được cố định trên bất kỳ phương tiện hữu hình nào, hiện có hoặc được phát triển sau này, từ đó tác phẩm có thể được cảm nhận, sao chép hoặc truyền đạt theo bất kỳ cách nào, trực tiếp hoặc nhờ sự trợ giúp của máy móc hay thiết bị.” do đó chỉ tác phẩm nguyên gốc có tác giả là con người và được định hình ở vật thể hữu hình mới được bảo hộ quyền tác giả đối với những tác phẩm khoa học được tạo ra bởi trí tuệ nhân tạo sẽ không bảo hộ bản quyền, bởi Hoa Kỳ cho rằng tác giả sáng tạo phải là con người bằng sự lao động trí óc và sáng tạo ra. Đối với các tác phẩm không do con người sáng tạo ra hoặc những sự vật có trong tự nhiên sẽ không được Văn phòng Bản quyền Hoa Kỳ (United States Copyright Office – USCO) cho đăng ký bảo vệ bản quyền, tuy nhiên đối với các tác phẩm do AI sáng tạo ra có sự đóng góp của con người sẽ được công nhận quyền tác giả cho con người.

Nhận thức rõ được vấn đề bảo vệ tài sản trí tuệ, những năm qua, Việt Nam cũng đã có những tiến bộ trong việc nếu cao tinh thần bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ nói chung và quyền tác giả nói riêng. Thực tế cho thấy, việc xác định chủ sở hữu quyền tác giả không đơn giản. Pháp luật hiện nay cũng chưa có quan điểm rõ ràng về vấn đề này, dẫn đến nhiều vướng mắc trong việc bảo hộ và khuyến khích sáng tạo cho các tác phẩm AI.

Theo quy định tại Điều 13 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 và Điều 6 Nghị định 22/2018/NĐ-CP nêu rõ: “Tổ chức, cá nhân có tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả gồm người trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm và chủ sở hữu quyền tác giả quy định tại các điều từ Điều 37 đến Điều 42 Luật Sở hữu trí tuệ 2005.”[8] và “Tác giả là người trực tiếp sáng tạo ra một phần hoặc toàn bộ tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học.”[9]

Căn cứ bởi các quy định trên, quyền tác giả chỉ có thể được bảo hộ cho “con người” – một cá nhân nhất định. AI – không phải là con người, không có khả năng có quyền và nghĩa vụ pháp lý, do đó không được cấp quyền tác giả. Hiện pháp luật Việt Nam chỉ công nhận hai nhóm chủ thể được hưởng quyền tác giả: (i) người trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm, tức cá nhân có hoạt động sáng tạo mang tính chủ quan và (ii) chủ sở hữu quyền tác giả theo các trường hợp được chuyển giao, thỏa thuận, giao kết hợp đồng hoặc theo quy định pháp luật (chẳng hạn như tác phẩm được tạo ra theo nhiệm vụ công vụ hoặc hợp đồng lao động). Do đó, trí tuệ nhân tạo AI không thuộc bất kỳ nhóm chủ thể nào, căn cứ xuất phát từ yếu tố “người” trong quy định pháp luật. AI không thể là “người” có năng lực hành vi dân sự để trực tiếp sáng tạo một cách có ý thức pháp luật, cũng không thể là chủ sở hữu quyền tác giả vì không có năng lực sở hữu hoặc ký kết hợp đồng. Vì thế, AI không có năng lực pháp luật dân sự, không có hành vi dân sự, không được công nhận là một chủ thể pháp luật độc lập, do đó AI không thể là tác giả về mặt pháp lý.

Như vậy, pháp luật Việt Nam hay pháp luật thế giới đều không công nhận quyền tác giả của trí tuệ nhân tạo có liên quan trực tiếp đến vấn đề xử lý xâm phạm quyền tác giả, và lý do nằm ở các nguyên tắc pháp lý cơ bản. Tác giả là người có khả năng sáng tạo, có năng lực pháp luật hành vi dân sự và sẽ là chủ thể chịu trách nhiệm pháp lý, hầu hết các quy định pháp luật của các quốc gia trên thế giới đều quy định tác giả phải là con người, bởi AI không có ý thức, không có quyền và nghĩa vụ pháp lý, nên không thể chịu trách nhiệm nếu tác phẩm bị sao chép trái phép. Khi vấn đề xâm phạm xảy ra cần xác định ai là người thiệt hại và ai là chủ thể chịu trách nhiệm, nếu AI được công nhận quyền tác giả sẽ rất khó để xác định, ai là chủ thể có quyền kiện? và ai sẽ là người chịu bồi thường nếu có hành vi xâm phạm xảy ra? Do đó, hiện nay pháp luật chỉ cho phép người điều khiển AI hoặc người đóng góp sáng tạo đáng kể được coi là chủ sở hữu để có cơ sở pháp lý xử lý vi phạm. Việc không công nhận quyền tác giả cho AI giúp pháp luật vẫn bảo vệ quyền lợi con người, đồng thời giữ nguyên khả năng xử lý xâm phạm của hệ thống pháp luật quốc gia. Bên cạnh đó, Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam vẫn chưa quy định cụ thể cơ chế xử lý các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ trong môi trường số. Việc sao chép, phát tán hay vi phạm bản quyền các sản phẩm trí tuệ trên không gian mạng ngày càng gia tăng, trong khi các quy định hiện hành chưa đủ khả năng kiểm soát, đặc biệt đối với những sản phẩm được tạo ra bởi AI.

3. Các giải pháp pháp lý tiềm năng:

Để giải quyết vấn đề này, các nhà lập pháp có thể xem xét một số giải pháp cụ thể như sau:

a. Sửa đổi các quy định về quyền tác giả, cập nhật luật sở hữu trí tuệ để xác định rõ ràng quyền tác giả đối với các tác phẩm do AI tạo ra, về việc công nhận quyền sở hữu hoặc quyền liên quan cho người điều khiển AI.

Ưu điểm & Khó khăn: Việc thay đổi các quy định của pháp luật mở ra một cơ hội mới, đồng thời cũng có tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế, đặc biệt là đối với các kỹ sư AI. Mặc khác, AI là công cụ, được tạo ra từ con người – không phải con người do đó việc xác định ai là “người điều khiển AI” nhằm đủ điều kiện được công nhận quyền tác giả có thể gây tranh cãi bởi nhiều bên có thể tham gia vào quá trình tạo tác phẩm (người lập trình AI, người nhập dữ liệu, người lựa chọn thuật toán, người đưa ra chỉ dẫn), việc phân định trách nhiệm và quyền lợi khá phức tạp.

b. Xác định trách nhiệm pháp lý khi AI tự phát sinh tác phẩm. Cập nhật hướng dẫn xử lý xâm phạm, rõ ràng về cách đánh giá hành vi sao chép hoặc sử dụng trái phép tác phẩm AI.

Ưu điểm & khó khăn: AI không phải là chủ thể pháp lý, khó xác định người chịu trách nhiệm, Chủ sở hữu AI có thể phải chịu trách nhiệm pháp lý cho tất cả tác phẩm mà AI sinh ra, kể cả khi không trực tiếp kiểm soát quá trình tạo tác phẩm.

c. Xem xét quy định cấp quyền tác giả cho người lập trình, người sở hữu AI hoặc thậm chí cấp quyền tác giả cho AI, khi đó người tạo ra thuật toán hoặc hệ thống AI là người chịu trách nhiệm pháp lý đối với tác phẩm do AI tạo ra, hay chủ sở hữu AI – tổ chức hoặc cá nhân đã đầu tư phát triển và vận hành hệ thống AI nếu AI được xem là một công cụ sáng tạo, thì quyền sở hữu trí tuệ có thể thuộc về người sở hữu AI.

Ưu điểm & khó khăn: Việc cấp quyền cho người lập trình AI (i), chủ sở hữu AI (ii) hay trực tiếp cho AI (iii) đều có chung một ưu điểm là dễ xác định chủ thể quyền. Tuy nhiên, đối với cấp quyền cho (i) Người lập trình AI không trực tiếp tạo ra tác phẩm cụ thể, nếu nhiều người lập trình cùng tham gia, việc phân chia quyền lợi phức tạp; (ii) Đối với chủ sở hữu AI (cá nhân hoặc tổ chức) AI có thể tạo ra nhiều tác phẩm khác nhau, xác định phạm vi quyền sở hữu và trách nhiệm pháp lý cho từng tác phẩm là vấn đề khó; (iii) Đối với cấp quyền trực tiếp cho AI, AI không phải là chủ thể có thể tự chịu trách nhiệm pháp lý, cần phải có cơ chế đặc biệt để giao quyền lợi cho con người liên quan.

d. Ràng buộc bởi Hợp đồng và thỏa thuận pháp lý, khi đó các bên có thể sử dụng các hợp đồng hoặc thỏa thuận giữa các bên để quy định quyền sở hữu trí tuệ đối với các tác phẩm AI, bao gồm việc chỉ định quyền sở hữu cho người lập trình hoặc chủ sở hữu AI.

Ưu điểm & khó khănKhó khăn về xác định chủ thể thực sự, nếu nhiều bên tham gia phát triển AI (lập trình viên, nhà đầu tư, tổ chức vận hành), việc xác định ai có quyền sở hữu tác phẩm tạo ra bởi AI có thể phức tạp, khi không có hợp đồng rõ ràng, tranh chấp dễ xảy ra.

e. Gắn dấu bản quyền kỹ thuật số nhằm nhận diện tác phẩm AI và chứng minh quyền sở hữu.

Ưu điểm & khó khăn: Việc gắn dấu bản quyền kỹ thuật số đòi hỏi công cụ kỹ thuật và quy trình chuẩn hóa, đặc biệt với số lượng lớn tác phẩm AI như hiện nay. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật các quốc gia trên thế giới chưa có quy định rõ ràng về việc công nhận này như là bằng chứng pháp lý cho quyền sở hữu. Có thể thấy, trong tranh chấp nếu chỉ có dấu kỹ thuật số có thể không đủ, cần thêm chứng cứ về quá trình tạo tác phẩm, quyền sở hữu AI, v.v…

f. Lưu trữ bản sao và Metadata: Giúp chứng minh thời gian tạo và người điều khiển AI.

Ưu điểm & khó khănVí dụ trong tác phẩm AI, Metadata có thể có thể cung cấp thông tin về tác phẩm như: Thông tin về người tạo/tác giả (người lập trình hoặc người vận hành AI); Thời gian tạo tác phẩm; Phiên bản AI được sử dụng; Thông tin về người tạo/tác giả (người lập trình hoặc người vận hành AI); Điều kiện hoặc tham số khi AI sinh ra tác phẩm. Tuy vậy, Metadata vẫn có thể bị chỉnh sửa hoặc giả mạo nếu không được bảo vệ bằng cơ chế kỹ thuật an toàn như chữ ký số hoặc Blockchain (đây là một cơ sở dữ liệu phân tán, nơi các giao dịch hoặc thông tin được ghi lại thành các “khối” liên kết với nhau và không thể bị thay đổi hoặc xóa bỏ sau khi đã ghi). Nếu Metadata bị thay đổi, giá trị chứng minh quyền sở hữu giảm đi. Tương tự, hệ thống pháp luật các quốc gia trên thế giới chưa có quy định rõ ràng về việc công nhận này như là bằng chứng pháp lý cho quyền sở hữu.

4. Kết luận

AI là một công cụ sáng tạo mạnh mẽ, có tiềm năng mở rộng biên giới sáng tác. Tuy nhiên, khung pháp lý hiện tại vẫn còn nhiều khoảng trống, đặc biệt về việc xác định quyền tác giả cho các tác phẩm do AI tạo ra. Các nước phát triển như Anh, Nhật Bản, Mỹ và tổ chức WIPO đang tìm kiếm các giải pháp để cân bằng giữa khuyến khích đổi mới và bảo vệ quyền lợi sáng tác của con người. Mọi khuôn khổ pháp lý tương lai cần tôn trọng sự đóng góp của người vận hành hệ thống, kỹ sư phát triển AI và người sáng tác cuối cùng thông qua việc kiểm soát đầu vào và quá trình sáng tác

Riêng đối với Việt Nam, có thể vấn đề bản quyền AI đến nay chưa được chú trọng, nhưng rõ ràng cách thức mà luật pháp giải quyết các loại sáng tạo mới do máy móc, AI tạo ra sẽ tác động, ảnh hưởng đến thương mại một cách sâu rộng. Việc sử dụng phổ biến trí tuệ nhân tạo để tạo ra các tác phẩm ngày càng đặt ra những thách thức mới trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ, và mặc dù luật pháp hiện hành chưa quy định các vấn đề liên quan đến trí tuệ nhân tạo nhưng việc xác định chủ sở hữu quyền tác giả đối với các sản phẩm sáng tạo từ AI sẽ sớm phải được các nhà làm luật xem xét để có những quy định phù hợp trong thời kỳ đổi mới sáng tạo. Nói một cách khác, để thích ứng với sự phát triển của công nghệ, các quy định pháp lý cần phải được cập nhật và làm rõ hơn để bảo vệ quyền lợi của tất cả các bên liên quan trong quá trình sáng tạo trí tuệ nhân tạo.

Mai Thị Ngọc Thảo

Phòng Nhãn hiệu

INVESTIP – IP LAW FIRM


[1] Số lượng người dùng ChatGPT (tháng 7 năm 2025) – link: https://explodingtopics.com/blog/chatgpt-users

[2] Quỷ nhập tràng đang là bộ phim được đông đảo khán giả quan tâm – link: https://www.saostar.vn/am-nhac/nhac-phim-quy-nhap-trang-gay-tranh-cai-vi-thuc-hien-toan-bo-bang-ai-202503100926066458.html

[3] Tổng thống đầu tiên dùng ChatGPT viết bài phát biểu – link: https://vnexpress.net/tong-thong-dau-tien-dung-chatgpt-viet-bai-phat-bieu-4566685.html

[4] Tranh do AI vẽ được đấu giá 432.000 USD – link: https://vnexpress.net/tranh-do-ai-ve-duoc-dau-gia-432-000-usd-3829837.html

[5] Copyright, Designs and Patents Act 1988 – Đạo luật Bản quyền, Thiết kế và Bằng sáng chế 1988 – link: https://www.legislation.gov.uk/ukpga/1988/48/section/12

[6] Quận ở Tokyo cấp quyền cư trú cho robot dùng trí tuệ nhân tạo – link: https://vnexpress.net/quan-o-tokyo-cap-quyen-cu-tru-cho-robot-dung-tri-tue-nhan-tao-3665609.html

[7] Copyright Law of the United States – Luật Bản quyền của Hoa Kỳ – link: https://www.copyright.gov/title17/title17.pdf

[8] Điều 13 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 – link: https://chinhphu.vn/default.aspx?pageid=27160&docid=30015

[9] Điều 6 Nghị định 22/2018/NĐ-CP Quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật sở hữu trí tuệ năm 2009 về quyền tác giả, quyền liên quan – link: https://vanban.chinhphu.vn/default.aspx?pageid=27160&docid=193017

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *