Khả năng phân biệt nhãn hiệu: Yếu tố quan trọng trong việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ tại Việt Nam

1. Đặt vấn đề

Việc thiết kế nhãn hiệu tưởng chừng như đơn giản nhưng lại ẩn chứa những hệ quả sâu rộng đối với hoạt động kinh doanh sau này của chủ sở hữu. Không chỉ dừng lại ở việc đảm bảo nhãn hiệu được chấp nhận bảo hộ, các chủ sở hữu nhãn hiệu cũng cần chú trọng đến khả năng thực thi quyền sở hữu trí tuệ (viết tắt là “thực thi quyền SHTT”) trong tương lai.

2. Từ các nhãn hiệu có danh tiếng trên thế giới

Nhiều nhãn hiệu có danh tiếng trên thế giới cũng lâm vào tình cảnh tiến thoái lưỡng nan trong việc thực thi quyền SHTT khi được thiết kế khá đơn giản. Năm 2024, thương hiệu xa xỉ Thom Browne đã giành chiến thắng trong cuộc chiến pháp lý kéo dài nhiều năm với Adidas tại Vương quốc Anh sau khi Adidas khởi kiện Thom Browne vì cho rằng việc Thom Browne sử dụng thiết kế bốn sọc là xâm phạm đến quyền sở hữu trí tuệ của nhãn hiệu ba sọc đặc trưng của Adidas. Tuy nhiên, Thẩm phán Tòa án Công lý Tối cao tại Anh và xứ Wales đã phán quyết phần thắng thuộc về Thom Browne khi cho rằng người tiêu dùng có thể nhận thấy sự khác biệt giữa các thiết kế này cũng như Adidas đã không đưa ra được bất kỳ bằng chứng nào về sự nhầm lẫn thực sự của người tiêu dùng. Phán quyết này được đưa ra sau khi Thom Browne giành chiến thắng liên tiếp trong các cuộc chiến pháp lý khác chống lại Adidas.

Có thể hiểu rằng quyền bảo hộ của Adidas đối với họa tiết ba sọc chỉ được công nhận trong phạm vi các nhãn hiệu đã được bảo hộ. Theo đó, thiết kế ba sọc của Adidas có thể được xem là khá đơn giản trong ngành thời trang đa dạng với vô số biến thể sọc khác nhau, Adidas khó có thể ngăn cản các bên khác sử dụng thiết kế sọc khác biệt với thiết kế ba sọc của mình, trừ khi chứng minh được người tiêu dùng có khả năng nhầm lẫn giữa các thiết kế này hoặc bằng chứng khác cụ thể hơn.[1]

Hay đối với nhãn hiệu “ChatGPT” và “GPT” của chatbot AI thuộc sở hữu của OpenAI đã gây chấn động thế giới trong thời gian gần đây cũng gặp phải tình cảnh bất lợi khi sử dụng các từ phổ biến trong lĩnh vực công nghệ làm nhãn hiệu. Cụ thể, Văn phòng Sáng chế và Nhãn hiệu Hoa Kỳ (USPTO) đã từ chối đơn đăng ký nhãn hiệu “ChatGPT” và “GPT” của OpenAI, với lý do “Chat” có nghĩa là “trao đổi qua mạng máy tính” và “GPT” là từ viết tắt của “Generative Pre-training Transformer” được sử dụng rộng rãi và có nghĩa tạm dịch là “bộ chuyển đổi được đào tạo trước tạo sinh”. Theo đó, USPTO cho rằng “GPT” là một thuật ngữ quá rộng để đăng ký và có thể ngăn cản đối thủ cạnh tranh mô tả chính xác sản phẩm của mình.

Mặc dù OpenAI đã nỗ lực chứng minh bằng cách lập luận rằng “GPT” không phải là từ mô tả và cũng không phải là thuật ngữ chung khi người tiêu dùng khó có thể “hiểu ngay” ý nghĩa của nó nhưng USPTO vẫn giữ quan điểm rằng điều quan trọng không phải là người tiêu dùng có biết “GPT” có nghĩa là gì hay không mà chỉ cần những người sử dụng công nghệ hiểu rằng thuật ngữ “GPT” đề cập đến một loại phần mềm chung, không chỉ riêng các sản phẩm của OpenAI.

Sự phổ biến rộng rãi của thuật ngữ “GPT” đã tạo ra thách thức không nhỏ cho OpenAI trong việc thực thi quyền SHTT khi họ gặp khó khăn trong việc đăng ký nhãn hiệu mà các đối thủ cạnh tranh đã nhanh chóng kết hợp “GPT” vào tên sản phẩm và dịch vụ AI của họ. OpenAI đã phải đặt tên nhãn hiệu riêng cho các dịch vụ khác, điển hình như việc đặt tên “Sora” cho mô hình tạo video từ văn bản.[2]

3. Đến các nhãn hiệu quen thuộc với người tiêu dùng tại Việt Nam

Hay tại Việt Nam, nhiều chủ sở hữu nhãn hiệu cũng đang đối mặt với thách thức trong việc thực thi quyền SHTT khi đã sử dụng nhãn hiệu không có khả năng phân biệt trong hoạt động kinh doanh. Chẳng hạn, Công ty Cổ phần Giao Hàng Tiết Kiệm (gọi tắt là “Công ty GHTK”) hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực dịch vụ vận tải và dịch vụ chuyển phát nhanh bưu phẩm, thường được biết đến với tên gọi (cũng như nhãn hiệu) “Giao Hàng Tiết Kiệm”. Nhãn hiệu này được xem là không có khả năng phân biệt tự thân khi chỉ là dấu hiệu mô tả giá trị dịch vụ, không thể được đăng ký bảo hộ riêng. Điều này gây khó khăn cho Công ty GHTK trong việc xử lý xâm phạm các đối tượng khác sử dụng dấu hiệu tương tự, buộc Công ty GHTK phải dần chuyển sang sử dụng các nhãn hiệu khác trong hoạt động kinh doanh cho dù người tiêu dùng đã quen thuộc với nhãn hiệu “Giao Hàng Tiết Kiệm”. Để đảm bảo khả năng bảo hộ, Công ty GHTK đã phải đăng ký thêm các nhãn hiệu khác như “GHTK” (dạng viết tắt) hoặc kết hợp cụm từ “Giao Hàng Tiết Kiệm” với các yếu tố khác.

Hình 1: Thông tin các nhãn hiệu của Công ty GHTK
Hình 1: Thông tin các nhãn hiệu của Công ty GHTK

Một trường hợp khác là Công ty cổ phần thương mại dịch vụ Trà Cà Phê VN (gọi tắt là “Công ty Trà Cà Phê VN”) cũng gặp khó khăn trong việc đăng ký nhãn hiệu và thực thi quyền SHTT khi cho đến thời điểm hiện tại chỉ có nhãn hiệu “THE COFFEE HOUSE SINCE 2014, hình” được chấp nhận bảo hộ trong tổng số 07 nhãn hiệu mà Công ty Trà Cà Phê VN đã nộp đơn đăng ký.

Hình 2: Thông tin các nhãn hiệu của Công ty Trà Cà Phê VN
Hình 2: Thông tin các nhãn hiệu của Công ty Trà Cà Phê VN

Có thể thấy rằng, việc kết hợp những từ đơn giản “THE”, “COFFEE”, “HOUSE” để tạo nên nhãn hiệu đã bộc lộ nhiều hạn chế, khi những từ này được xem là không có khả năng phân biệt trong nhóm hàng hóa, dịch vụ liên quan đến cà phê, dẫn đến nhãn hiệu “THE COFFEE HOUSE SINCE 2014, hình” chỉ được bảo hộ ở dạng tổng thể mà không được bảo hộ riêng cho “THE COFFEE HOUSE” vì đây là các từ tiếng Anh có nghĩa, thể hiện tên gọi thông thường, mô tả địa điểm của hàng hóa, dịch vụ như quy định tại Điều 74.2.b, c Luật SHTT. Điều này dẫn đến thực tế là có nhiều bên khác sử dụng một phần hay toàn bộ cụm từ này để đăng ký nhãn hiệu trùng hoặc tương tự,  hoặc thậm chí sử dụng dấu hiệu “THE COFFEE HOUSE” cho các cửa hàng đồ uống với thiết kế tương tự với cửa hàng đồ uống gốc của Công ty Trà Cà Phê VN, gây sự nhầm lẫn cho người tiêu dùng.[3] Với các trường hợp này, ngay cả khi có đủ căn cứ cho thấy hành vi cạnh tranh không lành mạnh của các đối tượng, Công ty Trà Cà Phê VN cũng sẽ gặp vô vàn khó khăn, rào cản trong việc xử lý xâm phạm và bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình.

Bên cạnh đó, sự chậm trễ trong việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu cũng là một trong các tác nhân gây thiệt hại đến quyền lợi của Công ty Trà Cà Phê VN. Cụ thể, đến ngày 08/09/2021 Công ty Trà Cà Phê VN mới tiếp tục đăng ký nhãn hiệu “THE COFFEE HOUSE” thứ hai sau hơn 06 năm đăng ký thành công nhãn hiệu đầu tiên. Điều này cho thấy doanh nghiệp chưa có sự chú trọng đầu tư đúng mức và chưa có chiều sâu chiến lược trong việc bảo vệ quyền nhãn hiệu của mình. Chính điều này vô tình đã tạo ra kẽ hở khiến nhiều bên khác lợi dụng sự độc đáo ấn tượng của cụm từ “THE COFFEE HOUSE” để sử dụng hoặc đăng ký những dấu hiệu tương tự tạo bởi sự kết hợp giữa cụm từ này với các dấu hiệu khác, gây nhầm lẫn mức độ cao cho người tiêu dùng. Qua đây có thể thấy bảo hộ sở hữu trí tuệ đóng vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh mà bất kỳ chủ sở hữu nhãn hiệu nào cũng cần phải quan tâm chú ý. Vệc tìm hiểu thông tin, tham vấn từ các luật sư và chuyên gia trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ ngày càng trở nên cần thiết, đặc biệt là trong thời đại kinh tế hội nhập với nhiều sự cạnh tranh hiện nay.

4. Quy định pháp luật và thực tiễn tại Việt Nam

Để được chấp nhận bảo hộ, nhãn hiệu phải đáp ứng các điều kiện theo Điều 72 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi bổ sung 2022 (gọi tắt là “Luật SHTT”), trong đó nhãn hiệu phải đáp ứng về khả năng phân biệt theo Điều 74 Luật SHTT. Khả năng phân biệt có thể hiểu đơn giản là nhãn hiệu chứa các đặc điểm, dấu hiệu giúp phân biệt hàng hóa, dịch vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu với hàng hóa, dịch vụ của chủ thể khác. Cụ thể, khả năng phân biệt của nhãn hiệu được chia thành: phân biệt tự thân và sự phân biệt thông qua quá trình sử dụng. Nhãn hiệu có thể đạt được khả năng phân biệt tự thân thông qua việc thiết kế nhãn hiệu độc đáo bằng cách kết hợp các dấu hiệu như chữ, hình và màu sắc, nhờ đó tạo ra sự khác biệt rõ ràng so với các nhãn hiệu khác. Ngoài ra, trong trường hợp nhãn hiệu không có khả năng phân biệt tự thân thì nhãn hiệu đó có thể được bảo hộ thông qua việc đạt được khả năng phân biệt thông qua quá trình sử dụng. Ví dụ, nhãn hiệu SHARP của SHARP KABUSHIKI KAISHA (also trading as SHARP CORPORATION) được coi là thiếu khả năng phân biệt tự thân vì nhãn hiệu SHARP có nghĩa là sắc bén có thể được xem là từ mô tả hình dạng của tivi, hàng hóa mà SHARP sản xuất, kinh doanh nhưng sau đó nhãn hiệu SHARP đã được chấp nhận bảo hộ vì người tiêu dùng đã nhận biết được nhãn hiệu này trên các sản phẩm tivi là của SHARP KABUSHIKI KAISHA (also trading as SHARP CORPORATION).

Tuy nhiên hiện nay, nhiều chủ sở hữu nhãn hiệu có xu hướng sử dụng các từ ngữ thông dụng, phổ biến trong các ngành nghề cụ thể, với ý định thiết kế nhãn hiệu đơn giản và tạo sự dễ nhớ cho người tiêu dùng. Điều này vô tình làm tăng nguy cơ bị từ chối bảo hộ hoặc buộc phải thiết kế lại nhãn hiệu để được bảo hộ tổng thể, mà không được bảo hộ riêng đối với dấu hiệu mà họ mong muốn. Bên cạnh đó, sự chủ quan và xem nhẹ việc thiết kế nhãn hiệu có thể gây ra những rủi ro tiềm ẩn trong việc thực thi quyền SHTT sau này.

Tại Việt Nam, chủ sở hữu nhãn hiệu khi muốn thực thi quyền SHTT đối với các trường hợp xâm phạm hoặc xung đột quyền sở hữu trí tuệ thường phải thực hiện giám định tại Viện Khoa học sở hữu trí tuệ, theo đó kết luận giám định sẽ là tài liệu, bằng chứng quan trọng chứng minh có hành vi xâm phạm hay không. Trong trường hợp kết luân giám định có lợi, chủ sở hữu nhãn hiệu có thể cung cấp cho các cơ quan thực thi quyền sở hữu trí tuệ để tiến hành xử lý xâm phạm, gửi Thư khuyến cáo, nộp đơn phản đối hay ý kiến của người thứ ba.

Điều này cho thấy, mặc dù nhãn hiệu đã được pháp luật bảo hộ, việc đánh giá sự tương tự hoặc hành vi xâm phạm quyền từ phía cơ quan có thẩm quyền vẫn đóng vai trò quyết định trong quá trình thực thi quyền SHTT. Nói cách khác, nhận định chủ quan ban đầu về sự giống nhau giữa các nhãn hiệu không đủ để khẳng định hành vi xâm phạm mà các cơ quan có thẩm quyền thường yêu cầu tài liệu, bằng chứng là kết quả giám định để tiến hành xử lý. Do đó, việc chủ động chuẩn bị đầy đủ tài liệu và bằng chứng, bao gồm kết luận giám định, ngay từ giai đoạn đầu của việc thực thi quyền SHTT là rất quan trọng.

Tuy nhiên, trong trường hợp nhãn hiệu đã được bảo hộ nhưng chỉ được bảo hộ tổng thể mà không được bảo hộ riêng phần dấu hiệu mà chủ sở hữu nhãn hiệu sử dụng chính trong hoạt động kinh doanh (như trường hợp của Công ty Trà Cà Phê VN nêu trên), việc giám định có thể khó mang lại kết quả có lợi cho chủ sở hữu nhãn hiệu vì các bên khác vẫn có thể sử dụng phần dấu hiệu không được bảo hộ riêng (vì không đáp ứng khả năng phân biệt) cho các nhãn hiệu của họ. Để khắc phục tình trạng này, chủ sở hữu nhãn hiệu có thể xem xét một số phương án thay thế, bao gồm việc đăng ký thêm nhiều nhãn hiệu tương tự, có tính chất “bao vây” để mở rộng quyền nhãn hiệu của mình, giống như xây một “hàng rào” để bảo vệ thương hiệu cốt lõi của mình, hoặc sử dụng các biện pháp xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh và/hoặc gửi Thư khuyến cáo đến bên xâm phạm. Tuy nhiên, mỗi phương án đều tồn tại những hạn chế nhất định. Ví dụ, việc đăng ký nhiều nhãn hiệu tương tự có thể tốn kém về thời gian và chi phí, đồng thời làm phức tạp hóa danh mục nhãn hiệu của doanh nghiệp. Các biện pháp xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh cũng bộc lộ nhiều hạn chế khi bị giới hạn các trường hợp áp dụng hay Thư khuyến cáo có thể không đủ sức răn đe đối với các đối tượng xâm phạm.

5. Kết luận

Để đảm bảo khả năng bảo hộ và thực thi quyền SHTT trong tương lai, các chủ sở hữu nhãn hiệu cần cập nhập kiến thức sở hữu trí tuệ đồng thời tham vấn ý kiến của các chuyên gia tư vấn sở hữu trí tuệ để thiết kế nhãn hiệu sao cho phù hợp với quy định pháp luật từ Điều 72 đến Điều 74 Luật SHTT, đặc biệt là khả năng phân biệt của nhãn hiệu. Việc đầu tư thời gian và nguồn lực trong việc cập nhật kiến thức sở hữu trí tuệ nói chung và việc thiết kế nhãn hiệu nói riêng không chỉ giúp chủ sở hữu nhãn hiệu bảo vệ được tài sản trí tuệ của mình, mà còn tạo ra lợi thế cạnh tranh trên thị trường Việt Nam cũng như thế giới.


[1] https://www.fashiondive.com/news/thom-browne-adidas-stripe-lawsuit-uk/734048/ và https://www.farrer.co.uk/news-and-insights/more-than-three-stripes-and-youre-out-adidas-loses-trade-mark-case-against-thom-browne/

[2] https://www.theverge.com/2024/2/16/24075304/trademark-pto-openai-gpt-deny và https://www.geekwire.com/2024/uspto-denies-openais-applications-to-trademark-chatgpt-and-gpt/

[3] https://congthuong.vn/xuat-hien-nhieu-cua-hang-the-coffee-house-dao-nhai-tai-tp-ho-chi-minh-183465.html

Tác giả: Đỗ Anh Tuấn

Phòng Thực thi quyền

INVESTIP – IP LAW FIRM

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *